Gỗ ghép thanh hay còn gọi là ván ghép thanh (Finger joint) là một sản phẩm ván gỗ công
nghiệp được
sản xuất bằng cách ghép các thanh gỗ tự nhiên có kích thước nhỏ lại với nhau nhờ chất kết dính sau
đó được ép dưới nhiệt độ và áp suất quy định để tạo thành những tấm ván có kích thước lớn hơn.
Các thanh gỗ được ghép với nhau nhờ khớp nối có sử dụng chất kết dính. Mặt cắt của các khớp nối
giống như những ngón tay đan vào nhau nên có tên là “finger joint”. Các thanh gỗ được ghép lại với
nhau tạo nên thiết diện bề mặt tấm ván lớn, có liên kết tốt và độ bền chắc cao. Ván ghép thanh
thường dễ bị nhầm lẫn với những mộng khớp của các thùng/hộp gỗ ứng dụng ở các góc hộp/các công trình
dạng hộp.
Gỗ ghép thanh xuất hiện từ rất sớm nhưng chỉ được phát triển mạnh sau năm 1970. Khu vực có sản lượng gỗ ghép thanh lớn nhất là Châu Âu, tiếp theo là Châu Mỹ và Châu Á. Tại Châu Á, Nhật Bản là nước sản xuất ván ghép thanh nhiều nhất, theo sau là Hàn Quốc và Indonesia.
Tấm ván ghép thực chất là gỗ ghép công nghiệp nhưng có chất lượng tương tự như tấm ván gỗ tự nhiên
do thực chất nguyên liệu sản xuất tấm ván vẫn là những thanh gỗ tự nhiên. Thông thường, gỗ ghép
thanh được sản xuất từ gỗ cao su, gỗ thông, gỗ keo, gỗ tràm,… hoặc các loại gỗ phi tiêu chuẩn như
bìa bắp từ các phân xưởng lẻ, gỗ có đường kính nhỏ và một số loại gỗ tận dụng khác không thể dùng để
đóng đồ nội thất thành phẩm.
Các chất kết dính và phụ liệu chủ yếu để sản xuất gỗ ghép thanh bao gồm keo Urea Formaldehyde (keo
UF); keo Phenol Formaldehyde (keo PF); keo Polyvinyl Acetate (keo PVAc).
Quy trình sản xuất gỗ ghép thanh trải qua các bước như sau:
Bước 1: Sấy gỗ
Để loại bỏ các thành phần như vỏ cây, nhựa, mủ trong thân cây, các thanh gỗ cần trải qua quá trình
sấy tẩm nghiêm ngặt ở nhiệt độ quy định. Quá trình này giúp hạn chế sự xâm nhập của côn trùng, mối
mọt và giảm thiểu sự biến thiên của thanh gỗ (co rút hoặc giãn nở) do tác động của các điều kiện
ngoại cảnh như thời tiết, môi trường.
Bước 2: Cắt phôi gỗ
Phôi gỗ được cắt theo nhu cầu và mục đích sử dụng của sản phẩm. Thông thường, bản rộng của thanh gỗ
dao động từ 50 – 95mm; chiều dài từ 200 – 500mm và độ dày từ 10 – 40mm.
Tiếp theo, các phôi gỗ được tạo rãnh (mộng) với 2 định dạng mộng phổ biến là mộng đứng (hình răng
lược) và mộng nằm. Mộng đứng tạo độ chắc chắn cho tấm gỗ nhưng để lộ ra những vết ghép răng lược
trên bề mặt tấm ván. Với mộng nằm ngang, các mối ghép được giấu đi tạo tính thẩm mỹ cho tấm ván, tuy
nhiên phương pháp này không tạo được sự rắn chắc và ổn định cho tấm ván bằng mộng đứng.
Những phôi gỗ cũng được chọn lọc kỹ càng để loại bỏ những phôi không đồng đều về màu sắc, có mắt gỗ
xấu hoặc bị tách, nứt. Phôi gỗ ghép được phân loại chất lượng AA, AB, AC – AD, BC, CD… Cụ thể:
Về cơ bản, gỗ ghép thanh kế thừa được rất nhiều ưu điểm của gỗ tự nhiên và hoàn toàn có thể thay thế
gỗ tự nhiên nhờ độ bền cơ lý, khả năng chịu nước, khả năng chịu lực….
Ván ghép thanh có độ chịu lực tốt nên được ứng dụng trong nhiều loại hình công trình xây dựng và nhà
ở. Đây cũng là loại gỗ phổ biến, dễ sản xuất nhờ nguồn nguyên liệu sẵn có, có tính bền vững vì sử
dụng gỗ rừng trồng và đang được mở rộng đặc biệt cho ngành nội thất.
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật, gỗ ghép thanh có nhược điểm về tính thẩm mỹ (với loại mộng đứng).
Thông thường, các tấm ván gỗ ghép thanh không được sử dụng trực tiếp trong những bề mặt nội thất mà
được ép phủ lớp veneer/HPL lên bề mặt để tăng tính thẩm mỹ và giá trị sử dụng.
Ván ghép thanh thường được ứng dụng trong ngành xây dựng hay đóng tàu thuyền. Ngoài ra, ván ghép
thanh còn được sử dụng làm ván ốp tường, ván ốp trần và các chi tiết dạng tấm phẳng.
Đặc biệt, trong ngành xây dựng, ván gỗ ghép thanh được sử dụng trong các kết cấu dầm, làm tấm ván
khuôn cho ngành bê tông. Ngoài ra, ván ghép thanh cũng được sử dụng nhiều trong nội thất: sản xuất
đồ nội thất, làm phụ kiện cho ngành cửa sổ gỗ,…
Để nhận báo giá về các loại ván gỗ phổ biến trên thị trường hiện nay của Gỗ Đông Dương, quý khách vui lòng liên hệ số điện thoại 02076.292.699 để được tư vấn và giải đáp các thắc mắc.
copyright 2021. All Rights Reserved.